- người có nghĩa vụ theo lý lẽ của quy định về tố tụng dân sự nếu tất cả căn cứ cho thấy thêm việc giải quyết vụ án có tương quan đến nhiệm vụ của họ đối với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân và câu hỏi xuất cảnh của họ ảnh hưởng đến việc xử lý Người nước ngoài là chuyên gia, nhà quản lý doanh nghiệp, lao động kỹ thuật cao… có giấy xác nhận không dương tính với virus COVID-19 do cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại cấp và được Việt Nam chấp thuận được phép nhập cảnh và phải được cách ly chặt chẽ Cơ sở pháp lý. Căn cứ Điều 128 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS) tuân thủ pháp luật về cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ được quy định như sau: “Điều 128. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ Cấm xuất cảnh, hạn chế xuất cảnh là việc một người bị hạn chế quyền đi ra nước ngoài khi người đó có nhu cầu theo văn bản hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong một số trường hợp. 2. Khi nào bị cấm xuất cảnh, hạn chế xuất cảnh. Căn cứ theo điều Căn cứ theo quy định tại Đều 4 Luật xuất cảnh nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019, đối với công dân thực hiện hoạt đọng xuất cảnh, nhập cảnh thì nghiêm cấm thực hiện các hành vi sau: 1. Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật để được cấp, gia hạn, khôi phục hoặc Vay Nhanh Fast Money. Dự thảo Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam quy định tạm hoãn xuất cảnh đối với trường hợp người bị thanh tra, kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó có vi phạm đặc biệt nghiêm trọng và xét thấy cần ngăn chặn việc người đó chạy trốn. Đó là kiến nghị bổ sung của Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Thượng tướng Võ Trọng Việt, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh báo cáo trong phiên giải trình Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam chiều 28/10. Thượng tướng Võ Trọng Việt cho biết các kiến nghị bổ sung của Ủy ban Thường vụ Quốc dựa trên cơ sở các ý kiến Đại biểu Quốc hội và căn cứ tình hình thực tiễn để quy định chi tiết trường hợp chưa cấp giấy tờ xuất nhập cảnh vì lý do quốc phòng, an ninh. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đề nghị tạm hoãn xuất cảnh đối với các trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đang có nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án; người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế; và người đang bị cưỡng chế, người đại diện cho tổ chức đang bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn. Liên quan đến trường hợp công dân Việt Nam vi phạm pháp luật ở nước ngoài và bị trao trả về nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội kiến nghị cơ quan quản lý xuất nhập cảnh tiến hành cấp giấy tờ nhập cảnh để đưa công dân về nước. Tuy nhiên, đối với trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh có liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật nghiệp vụ đề nghị giao cho Bộ trưởng Quốc phòng, Bộ Công an quyết định đối với từng cá nhân cụ thể và không quy định chi tiết trong Luật này. Bộ Công an cũng vừa công bố số liệu sơ bộ về tình hình vi phạm pháp luật trong tháng 10 từ ngày 15/9/2019 đến 14/10/2019 cho biết cơ quan chức năng đã bắt giữ 542 đối tượng bị truy nã, trong đó có 137 đối tượng nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm. Theo Bộ Công an, đã có hơn 4100 vụ vi phạm pháp luật về trật tự xã hội xảy ra toàn quốc trong tháng 10. Quy định cấm xuất cảnh với lý do an ninh lâu nay cũng áp dụng cho một số nhà hoạt động được nhiều người biết đến tại Việt Nam. Biện pháp này bị cho là tùy tiện vì cơ quan chức năng không thể cung cấp bất cứ bằng chứng nào về việc gây nguy hại đến an ninh quốc gia; nhưng vẫn có những nhà hoạt động liên quan không được xuất cảnh. Pháp luậtTư vấn Thứ hai, 1/2/2016, 1651 GMT+7 Theo Điều 21 văn bản hợp nhất Nghị định số 07/VBHN-BCA ngày 31/12/2015 quy định về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam, công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh nếu thuộc một trong những trường hợp sau đây “1. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm. 2. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án hình sự. 3. Đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế. 4. Đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính trừ trường hợp có đặt tiền, đặt tài sản hoặc có biện pháp bảo đảm khác để thực hiện nghĩa vụ đó. 5. Vì lý do ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm lây lan. 6. Vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội. 7. Có hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập cảnh theo quy định của Chính phủ”. Bên cạnh đó, Điều 22 Nghị định này quy định về thẩm quyền quyết định chưa cho công dân Việt Nam xuất cảnh như sau “1. Thẩm quyền quyết định chưa cho công dân Việt Nam xuất cảnh a Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án hoặc cơ quan thi hành án các cấp quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 21 Nghị định này. b Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ; thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; chủ tịch uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại khoản 4 Điều 21 Nghị định này. c Bộ trưởng Y tế quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại khoản 5 Điều 21 Nghị định này. d Bộ trưởng Công an quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại khoản 6 Điều 21 Nghị định này. đ Thủ trưởng cơ quan quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an quyết định chưa cho xuất cảnh đối với những người nêu tại khoản 7 Điều 21 Nghị định này. 2. Các cơ quan có thẩm quyền nêu tại các điểm a, b, c, d, khoản 1 Điều này khi quyết định chưa cho công dân xuất cảnh phải gửi văn bản thông báo cho Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an, nêu rõ các yếu tố nhân thân của người chưa được xuất cảnh và thời hạn chưa cho người đó xuất cảnh, để thực hiện. Khi hủy bỏ quyết định đó cũng phải thông báo bằng văn bản cho Cục Quản lý xuất nhập cảnh Bộ Công an để thực hiện. 3. Cơ quan nào quyết định chưa cho công dân xuất cảnh thì có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho công dân đó biết, trừ trường hợp vì lý do đảm bảo bí mật cho công tác điều tra tội phạm và lý do an ninh”. Đối chiếu các quy định vừa trích dẫn ở trên với trường hợp của bạn, mặc dù bạn là nguyên đơn trong một vụ án dân sự nhưng vụ án này trong giai đoạn “đang chờ để giải quyết” nên về nguyên tắc, đây thuộc đối tượng chưa được xuất cảnh. Do đó, nếu có vấn đề cấp bách cần giải quyết ở nước ngoài, bạn vẫn có thể làm đơn đề nghị tòa án giải quyết vắng mặt hoặc rút đơn khởi kiện để khi nào về nước sẽ làm thủ tục khởi kiện lại. Luật sư, thạc sĩ Phạm Thanh BìnhCông ty Luật Bảo Ngọc, Hà Nội 21 Tháng Chín, 2016 Luật sư tư vấn 695 Lượt xemNếu bị rơi vào một trong những trường hợp bị cấm xuất cảnh thì dù có hộ chiếu thì công dân cũng không thể xuất cảnh ra khỏi Việt Nam. Cụ thể những trường hợp cấm xuất cảnh này là gì?Hiểu biển báo cấm thế nào cho đúng?Các cách rút tiết kiệm khi vợ hoặc chồng bị đột quỵQuy định của pháp luật về trường hợp bị cấm xuất cảnhNhững trường hợp bị cấm xuất cảnhTại Nghị định số 136/2007/NĐ-CP có liệt kê một loạt các trường hợp Công dân Việt Nam ở trong nước chưa được xuất cảnh ra nước ngoài. Cụ thểĐang có nghĩa vụ chấp hành án hình bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay có liên quan đến công tác điều tra tội có nghĩa vụ chấp hành án hoặc đang chờ giải quyết tranh chấp về kinh tế, dân có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt hành chính, nghĩa vụ nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài chính trừ trường hợp có áp dụng các biện pháp bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ đó.Vì lý do an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã lý do ngăn chặn sự lây lan của các dịch bệnh nguy các hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập cảnh khác theo quy định của Chính các trường hợp nêu trên cần phải lưu ý nhất đến trường hợp “Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc có liên quan đến công tác điều tra tội phạm”. Vì theo Nghị định này, nếu chỉ bị tình nghi phạm tội mà vụ án còn chưa được khởi tố thì vẫn được phép xuất trước thực tế các vụ đào tẩu ra nước ngoài của những tội phạm này không ít. Gần đây nhất có thể kể đến là Tin tức ông Trịnh Xuân Thanh đã trốn ra nước ngoài. Theo nhiều luật sư giải thích, việc ông Trịnh Xuân Thanh đã ra khỏi lãnh thổ Việt Nam là rất dễ dàng. Bởi đối chiếu quy định nêu trên, trước ngày 16/9 ông Thanh chưa bị khởi tố, chưa bị điều tra nên có thể xem không thuộc trường hợp “có liên quan đến công tác điều tra tội phạm” và vẫn được quyền xuất kẽ hở pháp luật này, Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định bổ sung các trường hợp tạm hoãn xuất cảnh như sau “người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện hành vi phạm tội và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ thì có thể bị tạm hoãn xuất cảnh”. Như vậy, đối tượng bị tố giác, bị kiến nghị, bị khởi tố cũng nằm trong nhóm chưa được xuất quyền quyết định trường hợp bị cấm xuất cảnhThẩm quyền quyết định trường hợp bị cấm xuất cảnhCông dân Việt Nam chưa được xuất cảnh nếu bị các cơ quan có thẩm quyền sau ra quyết định chưa cho công dân Việt Nam xuất cảnhCơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án hoặc cơ quan thi hành án các cấp với những trường hợp đang bị truy cưu trách nhiệm hình sự/ đang có nghĩa vụ chấp hành án/ liên quan đến công tác điều tra tội phạm hình sự, dân sự, kinh trưởng cơ quan thuộc Chính phủ; Thủ trưởng, Bộ trưởng các Bộ; Chủ tịch UBND tỉnh/ thành phố trực thuộc Trung ương đối với cá đối tượng đang có nghĩa vụ chấp hành quyết định xử phạt hành chính, nộp thuế và những nghĩa vụ khác về tài trưởng Bộ Y tế đối với những trường hợp ngăn chặn bệnh dịch lây trưởng Bộ Công an với trường hợp vì lý do an ninh quốc phòng, an toàn xã trưởng cơ quan Quản lý xuất nhập cảnh – Bộ Công an với các trường hợp có các hành vi vi phạm hành chính về xuất nhập Luật sư tư vấn, nhìn chung các quy định trên đề ra vẫn còn nhiều thiếu xót bất cấp điển hình quy định “liên quan đến công tác điều tra tội phạm” là chưa được giải thích rõ ràng. Dù đã có sửa đổi nhưng việc sửa đổi này “vô tình” khiến các quy định bị chồng chéo, hạn chế hiệu quả việc thực hiện pháp Xem nhiều hơn Đây là một trong những biện pháp khẩn cấp tạm thời mới được đưa vào bộ luật tố tụng dân sự 2015. Theo như các tờ trình về bộ luật tố tụng dân sự được đăng trên các trang website của quốc hội và chính phủ thì biện pháp này được ủy ban các vấn đề xã hội của quốc hội đề cập trong đóng góp tham luận của mình về dự thảo luật tố tụng dân sự năm 2015. Biện pháp được định nghĩa như sau “Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ được áp dụng nếu có căn cứ cho thấy việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ của họ đối với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác và việc xuất cảnh của họ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc để bảo đảm việc thi hành án.” Vậy ta phải hiểu “người có nghĩa vụ” ở đây là gì? Có thể người đó là người có nghĩa vụ tham gia vào việc giải quyết vụ án từ khi tiến hành việc khởi kiện đến khi thi hành án, hoặc cũng có thể hiểu là người đó chỉ liên quan ở khâu thi hành án. Tuy nhiên đối với riêng cá nhân tác giả, người có nghĩa vụ ở đây nên được hiểu là người có nghĩa vụ tham gia vào toàn bộ việc giải quyết vụ án để vụ án được giải quyết nhanh chóng, có thể hiểu người đó ở đây là “đương sự của vụ án”. Việc cấm xuất cảnh đã được quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật đã quy định về việc cấm xuất cảnh như Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam. Tuy nhiên, Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài ở Việt Nam chỉ có phạm vi điều chỉnh với các đối tượng là người nước ngoài sẽ, đang tại Việt Nam. Đối với các cá nhân là người Việt Nam thì Nghị định số 07/VBHN-BCA ngày 31/12/2015 quy định về xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam [2] cũng có đề cập đến vấn đề nếu người đó đang có nghĩa vụ chấp hành bản án dân sự, kinh tế; đang chờ để giải quyết tranh chấp về dân sự, kinh tế thì không được phép xuất cảnh. .Vậy nên, việc quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời này được coi là việc bổ sung đối với pháp luật tố tụng nói chung. Theo như tờ trình về bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Ủy ban các vấn đề xã hội có đề cập đến việc các đương sự trong vụ án dân sự thường có thái độ trốn tránh, không tham gia các phiên thực hiện hoạt động tố tụng như phiên hòa giải, phiên xét xử sơ thẩm. Do đó, điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến trình giải quyết vụ án dân sư, kéo dài thời gian giải quyết một vụ án, do việc thiếu vắng đương sự trong các phiên thủ tục dẫn đến thủ tục hoãn, và tổ chức lại thủ tục đó. Không chỉ vậy, việc các đương sự có tình trốn tránh, không tham gia vào việc giải quyết vụ án dân sự còn dẫn đến việc vụ án đó sẽ được chuyển lên tòa án cấp tình quận, do khi các đương sự đang ở nước ngoài trong tiến trình thụ lý vụ án thì họ sẽ được coi thuộc đối tượng là “người nước ngoài”, và đương nhiên điều đó dẫn đến việc vụ án sẽ được chuyển lên tòa án cấp trên theo đúng thẩm quyền được quy định trong luật. Do đó, nhằm tránh những trường hợp như trên, giảm thiểu thời gian giải quyết một vụ án, giảm áp lực và khối lượng công việc cho Tòa án cấp trên – cụ thể là tòa cấp tỉnh quận thì Ủy ban đã đưa ra đề xuất về việc bổ sung quy định “cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ”. Đây là một quy định bổ sung, mang tính tiến bộ nhằm đảm bảo việc thực hiện giải quyết vụ án dân sự một cách dễ dàng và đúng thủ tục. Không chỉ vậy, việc cấm xuất cảnh đối với các đương sự, hay người có nghĩa vụ còn đảm bảo việc thực hiện đúng pháp luật tố tụng, đảm bảo quyền được tham gia phiên tòa của các bên có quyền trong vụ án, đảm bảo tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính vì cách thức quy định khác nhau này mà tạo ra thực tế là việc vận dụng các biện pháp này khác nhau, có khi thì rất chặt, thậm chí bị lạm dụng nhưng có khi lại quá lỏng. Tại Điều 114 BLTTDS quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó có biện pháp Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ. Biện pháp này được áp dụng nếu có căn cứ cho thấy việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ của họ đối với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác và việc xuất cảnh của họ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hoặc để đảm bảo việc thi hành án. Trong khi tại Điều 109 BLTTHS quy định về các biện pháp ngăn chặn thì lại khác. Cụ thể, điều luật quy định Khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi thẩm quyền của mình có thể áp dụng cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Cần lưu ý rằng biện pháp cấm đi khởi nơi cư trú Điều 123 BLTTHS 2015 và tạm hoãn xuất cảnh khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn Điều 124 BLTTHS 2015 là hai biện pháp áp dụng độc lập với nhau. Bà Đào Thị Hương Lan - người đã bỏ trốn trái và Vũ “nhôm” - người từng trốn ra nước ngoài. Ảnh BCA - HOÀNG GIANG Dễ dàng nhận thấy rằng tại hai điều luật của hai BLTTDS và BLTTHS đã có sự khác nhau về cách sử dụng các thuật ngữ pháp lý. Theo đó, BLTTDS sử dụng thuật ngữ “cấm xuất cảnh” và BLTTHS thì sử dụng “tạm hoãn xuất cảnh”. Từ việc sử dụng thuật ngữ có sự khác biệt của hai bộ luật cho thấy tính chất, mức độ sẽ ảnh hưởng đến đối tượng tác động cũng khác nhau. Đối với biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, có thể áp dụng đối với những người sau đây khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; bị can, bị cáo. Trong BLTTDS quy định “cấm xuất cảnh đối với với người có nghĩa vụ” nhiều lúc trên thực tế lại thực sự chưa cần thiết, có thể bị lạm dụng. Chẳng hạn có trường hợp lãnh đạo của một doanh nghiệp có nhiều tài sản nhưng khi bị kiện ra tòa, nguyên đơn đề nghị tòa áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm xuất cảnh. Tài sản ở Việt Nam của họ đôi khi còn nhiều so với số tài sản bị kiện và dư sức để đảm bảo thi hành án nếu có. Nhưng họ phải đi gặp gỡ các đối tác ở nước ngoài để hợp tác làm ăn thì bị vướng lệnh cấm xuất cảnh, như vậy là không hợp lý. Việc cấm xuất cảnh này vô hình trung ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển làm ăn của doanh nghiệp chỉ vì lệnh cấm xuất cảnh trên quá mức cần thiết. Chúng ta có thể thấy còn nhiều bất cập trong các quy định của pháp luật và ngay cả trong việc áp dụng pháp luật vẫn còn nhiều nhận thức khác nhau của những người tiến hành tố tụng dẫn đến nhiều hậu quả pháp lý khác nhau. Luật sư - TS NGUYỄN HỮU THẾ TRẠCH, Đoàn Luật sư

cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ